Thái Lan: Nhu cầu thức ăn cho lợn giảm khoảng 30%
Các đợt bùng phát ASF
Đầu tháng 1/2022, Thái Lan lần đầu tiên chính thức thừa nhận nước này đã có sự xuất hiện của ASF. Một quan chức của Bộ Phát triển Chăn nuôi đã xác nhận một trường hợp bệnh Dịch tả lợn Châu Phi ở tỉnh Nakhon Pathom vào ngày 11 tháng 1 năm 2022. Kể từ thời điểm đó, các báo cáo thường xuyên đã được gửi đến Tổ chức Thú y Thế giới (OIE).
Quốc gia này đã ghi nhận ổ dịch bùng phát từ 61 địa điểm ở 28 tỉnh thành trong cả nước; tất trường hợp báo cáo đều xuất hiện tại những ngôi làng nhỏ. Lớn nhất là một ngôi làng có 654 con lợn bị ảnh hưởng, các trường hợp được báo cáo thường xuyên là tại các đàn dưới 100 con. Tỉnh có nhiều ca nhiễm nhất được báo cáo cho đến nay là Ubon Ratchathani với 7 ổ dịch. Tỉnh này nằm ở cực Đông của đất nước, giáp với cả Lào và Campuchia.
Đáng chú ý, trong số các ổ dịch được báo cáo ban đầu vào tháng Giêng là một lò mổ ở tỉnh Nakhon Pathom. Trường hợp đó chưa được đưa vào báo cáo cho OIE. Ngoài ra, trường hợp đầu tiên đã được phát hiện vào ngày 25 tháng 11 năm 2021.
Theo báo cáo của GAINS, các quan chức và thương nhân Thái Lan cho rằng đợt bùng phát sẽ làm giảm sản lượng lợn từ 19-20 triệu con vào năm 2021 xuống còn 12-13 triệu con vào năm 2022, giảm 35-40%. Do đó, nhu cầu thức ăn cho lợn sẽ giảm 30%.
Một trang trại lợn ở Prachinburi, Thái Lan. Ảnh: Boerderij Redacteur
Nông dân chuyển từ ngô sang các cây trồng có lợi hơn
Sản lượng ngô ở Thái Lan được dự báo là 5,3 triệu tấn cho năm thị trường 2021/22, giảm 4% so với năm thị trường 2020/21. Sản lượng ngô giảm chủ yếu là do nông dân chuyển sang các cây trồng có lợi hơn như sắn và mía đường. Thêm vào đó, giá thành sản xuất ngô vẫn ở mức cao do chi phí phân bón tăng cao – giá bán buôn phân urê (46-0-0) tháng 11/2021 tăng 130% so với cùng kỳ tháng 11/2020.
Giá ngô tại ruộng tăng cao
Giá ngô tại nông trại trung bình từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2021 vẫn ở mức cao 8.202 baht/ tấn (246 USD/ tấn), tăng 7% so với năm 2020. Vào tháng 12 năm 2021, giá ngô tại nông trại trung bình vào khoảng 8.970 baht/ tấn (272 USD/ tấn), tăng 14% so với tháng 12 năm 2020 và cao hơn nhiều so với giá thu mua tại ruộng trung bình trong 5 năm qua.
Chi phí nhập khẩu các thành phần TACN thay thế
Chi phí nhập khẩu nguyên liệu thức ăn thay thế cao dẫn đến nhu cầu về ngô nhiều hơn, khiến giá ngô trong nước tăng. Trong khi đó, nhập khẩu các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi thay thế như lúa mạch và DDGS lần lượt giảm 70% và 60% so với cùng kỳ năm 2020.
Người ta dự đoán rằng các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước có khả năng sử dụng các loại ngũ cốc sản xuất trong nước, chẳng hạn như gạo tấm, vì giá gạo tấm trong nước vào tháng 12 năm 2021 giảm 6% so với cùng kỳ năm 2020.
Giảm nhu cầu nhập khẩu lúa mì
Dự báo nhập khẩu lúa mì cho thị trường năm 2021/22 thấp hơn 12,9% so với năm thị trường 2020/21, ở mức 2,9 triệu tấn. Đó là kết quả của việc giảm nhu cầu trong nước đối với lúa mì xay xát và làm thức ăn chăn nuôi do kinh tế phục hồi chậm từ đợt bùng phát dịch bệnh Covid-19 kéo dài và giá lúa mì thức ăn chăn nuôi nhập khẩu cao.
Nhập khẩu lúa mì trong nửa đầu năm thị trường 2021/22 đạt 1,23 triệu tấn, giảm 24% so với cùng kỳ năm trước.
Hạn hán dẫn đến nguồn cung cấp lúa mì thức ăn chăn nuôi bị thắt chặt hơn
Nhập khẩu lúa mì ước tính đạt 2,9 triệu tấn cho năm thị trường 2021/22, giảm 12% so với năm thị trường 2020/21. Nhập khẩu lúa mì trong nửa đầu năm thị trường 2021/22 đạt 1,23 triệu tấn, giảm 24% so với cùng kỳ năm ngoái. Hạn hán ở các nước sản xuất lúa mì lớn dẫn đến nguồn cung lúa mì thức ăn chăn nuôi thắt chặt hơn và giá lúa mì toàn cầu tăng đáng kể. Các nhà máy thức ăn chăn nuôi được cho là đã chuyển sang ngô và gạo tấm sản xuất trong nước và ngô nhập khẩu miễn thuế trong khẩu phần thức ăn cho lợn và gia cầm của họ, do giá lúa mì nhập khẩu cao.
Bài viết liên quan




There is no comment